LỜI GIỚI
THIỆU
Hoàng
Thái được cái may mắn là cháu của Cụ Chánh Kỷ và là con của
Cụ Đức Nguyên Tân-Định.
Cụ Chánh Kỷ lúc đương thời là thầy thuốc. Tuy quê quán tại
Ninh B́nh, nhưng Cụ thường xuyên làm việc tại Hà Nội. Những
người sống thời đó gần Ninh B́nh và Hà Nội chắc vẫn c̣n nhớ
danh Cụ. Không những chỉ là thầy thuốc ta, mà Cụ c̣n giữ
chức vụ Chủ tịch của Hội Đông-Tây Y-Dược, chủ trương nối
liền hai nền văn hóa trong việc t́m kiếm những phương cách
để chữa trị cho bệnh nhân. Ngoài ra Cụ Chánh Kỷ c̣n có biệt
tài là xem mạch Thái-tố. Xem mạch b́nh thường để bắt bệnh,
đồng thời Cụ phối hợp giữa mạch lư và âm dương lẫn ngũ hành
để định mạch Thái-Tố, rồi từ đó mới giải bệnh. Cụ xem mạch
ông biết bệnh bà, hoặc ngược lại xem mạch bà có thể đoán
được bệnh t́nh ông nhà, hoặc sự kiện ǵ có thể xẩy đến.
Cũng như xem mạch cha biết được cuộc đời người con. Cụ
vẫn dậy chúng tôi cần phải b́nh tâm để phân tích mạch v́
"Lương y như từ mẫu", có thế mới hy vọng giúp được người. Ngày
nay mạch Thái-Tố có lẽ đang đi dần vào quên lăng.
Cụ
Chánh Kỷ có 10 người con như đă liệt kê trong gia phả. Hầu
hết đều có kiến thức về thuốc, nhưng chỉ có hai người con
trai theo đuổi nghề của Cụ từ ngoài Bắc. Gia đ́nh Cụ Chánh
Kỷ đă di cư vào Nam năm 1954 và cả hai người con trai đều
lấy tên hiệu là Đức Nguyên. Người anh làm thuốc ở khu
Tân-Định và Phú-Nhuận. Người em làm ở khu Kỳ-Đồng và
Phú-Thọ. Để dễ phân biệt, bệnh nhân có thói quen gọi Đức
Nguyên kèm theo khu vực làm việc. Con cháu Cụ Chánh Kỷ ngày
nay chỉ c̣n lại vài người thông hiểu mạch lư. Hoàng Thái xin
ghi chép lại những ǵ đă được phụ thân truyền dậy hầu duy
tŕ một khoa học mà người Tây Phương măi đến nay mới có phần
công nhận.
*
* *
* *
* *
* *
* *
*
PHƯƠNG
PHÁP XEM MẠCH
Mạch là huyết mạch, là
nguồn sống của con người, phát nguyên từ Tâm, Can, Tỳ, Phế
và Thận. Chính thế hơi thở ra là bởi tim và phổi, lúc hút
vào là nhờ thận và gan. Cái điều đó là gốc, nhưng nói về cốt
yếu lại phải nhờ ở nơi Khí hóa, cũng là tỳ và vị, ở giữa
khoảng trung gian tiếp tế khí trời và hơi ngũ cốc, biến hóa
thần kỳ mới phát sinh ra khí huyết mạch lạc mà chu lưu thân
thể để nuôi sống con người cũng như mang đến sự khoẻ mạnh.
Chẩn mạch là phải xem
cả lục bộ, có nghĩa là xem cả Tả và Hữu của tam bộ : Thốn -
Quan - Xích. Tại v́ tinh thần của mạch th́ động hội ở :
a) Nhân-nghinh và Khí-khẩu (tức là Tả Thốn và
Hữu Thốn)
b) Tứ bộ (4 bộ c̣n lại là Tả Quan - Hữu Quan -
Tả Xích - Hữu Xích).
Chẩn mạch để biết khí
huyết thịnh hay suy, biết được Biểu, Lư, Hàn, Nhiệt; Hư,
Thực để định rơ căn bệnh. Thoạt tiên hăy để tay nhẹ lên lục
bộ mà lắng nghe, với thời gian lấy tay ḿnh làm cân thước,
ví dụ như :
- Ấn nặng bằng 3 hạt đậu để nghe mạch Phổi
(Phế) : Chủ B́ mao.
- Ấn nặng bằng 6 hạt đậu để nghe mạch Tim (Tâm)
: Chủ Huyết mạch.
- Ấn nặng bằng 9 hạt đậu để nghe mạch Tỳ : Chủ
Cơ nhục.
- Ấn nặng bằng 12 hạt đậu để nghe mạch Can
(Gan) : Chủ Gân.
- Ấn nặng bằng 15 hạt đậu để nghe mạch Thận :
Chủ Xương.
Một hơi thở ra, mạch
đi được 3 tấc. Một hơi hút vào, mạch cũng đi được 3 tấc. Một
ngày một đêm, con người ta thở ra hít vào khoảng 1 vạn 3
ngh́n 5 trăm hơi thở. Cũng thời gian đó, mạch đi được 50 độ
chu lưu khắp thân thể Kinh lạc, nghĩa là khắp một ṿng 50
độ, mạch lại động hội ở Thủ Thái Âm Kinh Thốn Khẩu, cho nên
các đấng Thánh hiền xưa suy nghiệm, dậy người ta xem mạch là
xem ở nơi Khí khẩu, ở Nhân nghinh, đó chính là nơi khí huyết
động hội vậy. Khí huyết thịnh th́ mạch thịnh, khí huyết loạn
th́ mạch bệnh. Bởi thế người thầy thuốc mới nhận biết được
mạch là nhờ bởi sự vận thể của khí huyết, mà khí huyết là
chỗ cốt yếu dùng của mạch vậy.
Mạch động hội ở Thủ
Thái Âm Kinh, tức là Hữu Thốn Khẩu. Trước tiên ta phải căn
cứ ở chỗ cao cốt nơi cổ tay, đó là Quan bộ, cách 1 tấc về
phía ngón tay là Thốn bộ và cách 1 tấc về phía khuỷu tay là
Xích bộ. Quan chính là chỗ Dương ra, Âm vào, người ta lấy
Quan làm quan giới, cho nên gọi là Quan Bộ. Tam Nguyên Thiên
Địa Nhân, tương ứng với Tam Bộ Cửu Hậu Thốn Quan Xích, mà
người ta cũng c̣n gọi là Thượng bộ, Trung bộ và Hạ bộ.
Tả Thốn là định vị của Tâm (tim) và Tiểu Tràng
* Ấn nhè nhẹ nơi
Tả Thốn, gọi là sơ án để định vị Tâm. Tâm chủ Huyết, thuộc
Hỏa, thuộc Nhân.
* Ấn nặng xuống ít nữa, gọi là trung án để định vị
Tiểu Tràng.
* Mạch đi trầm là hậu (bản vị) của Tâm. Mạch đi phù là
hậu (bản vị) của Tiểu Tràng.
* Tâm vượng về mùa hè nên mạch đi hồng, nghĩa là mạch
của tim đi mạnh hơn vào mùa hạ.
Tả Quan là định vị của Can (gan) và Đởm (mật)
* Ấn nặng xuống
nơi Tả Quan, gọi là trung án để định vị Can. Can chủ về Gân,
thuộc Mộc, thuộc Nghĩa.
* Ấn xâu ở Tả Quan, gọi là trọng án để định vị Đởm
* Mạch đi trầm là hậu (bản vị) của Can. Mạch đi phù là
hậu (bản vị) của Đởm.
* Can vượng về mùa xuân.
Tả Xích là định vị của Thận Thủy và Mạnh Môn
* Ấn xâu ở Tả
Xích, gọi là trọng án để định vị Mạnh Môn Hỏa. Thuộc Thủy,
thuộc Trí.
* Mạch đi trầm là hậu (bản vị) của Mạnh Môn.
Mạnh Môn vượng về mùa đông. Thận Thủy c̣n gọi là Bạch Khiếu
Hỏa.
* Phôi thai là lúc trứng và tinh trùng gặp nhau. Khi
thụ thai phát sinh ra một khí nóng, khí nóng đó là Mệnh Môn
Hỏa.
* Mệnh Môn Hỏa phát sinh trong con người lúc thụ thai
và mất sau khi không c̣n ǵ hoạt động trong cơ thể nữa.
* Khi hết Mệnh Môn Hỏa là chết. Lúc đó 2 huyệt Thái
Xung và Thái Khê ở dưới chân cũng hết.
Hữu Thốn là định vị của Phế (Phổi) và Đại Tràng
* Sơ án để định
vị Phế. Phế chủ về Khí. Thuộc Kim, thuộc Lễ (quư nhân phù
trợ).
* Trung án định vị Đại Tràng
* Mạch đi trầm là hậu của
Phế. Mạch đi phù là
hậu của Đại Tràng.
* Phế vượng mùa thu.
Hữu Quan là định vị của Tỳ và Vị
* Trung án để
định vị Tỳ (lá lách, rate, pancréas). Tỳ chủ về Cơ nhục.
Thuộc Thổ, chủ về Tín.
* Trọng án để định vị Vị (dạ dầy).
* Mạch đi trầm là hậu của Tỳ. Mạch đi phù là
hậu của Vị. Vượng ở cuối 4 mùa (Tháng 3, 6, 9,
12).
* Một ví dụ về mạch Thái Tố : Nếu tam bộ đều đi đúng
bản vị và sơ án cũng như trung án đều nhận thấy mạch vững ;
Đó là người khoẻ mạnh và đáng tin tưởng, hơn nữa bảo đảm họ có đầy
đủ tiền bạc, ruộng nương.
Hữu Xích là định vị của Thận, Bàng Quang và Tam Tiêu
* Trọng án để định vị
Thận, Bàng Quang và Tam Tiêu. Thận chủ vể Xương. Thuộc Hỏa,
chủ về Trí.
* Mạch đi trầm là hậu của Thận. Mạch đi phù là hậu của
Bàng Quang. Vượng ở mùa Đông.
* Tam Tiêu trong mạch giống như Mạnh Môn, gồm có
Thượng Tiêu (từ đầu đến ngực), Trung Tiêu (ngực đến rốn)
và Hạ Tiêu (rốn đến hạ bộ). Tam Tiêu vô h́nh, nhận để xét lư
bệnh nặng hay nhẹ.
Tóm tắt
Trong cơ thể chúng ta
có :
* Ngũ Tạng : là Tâm (tim) - Can (gan) - Tỳ (lá lách,
pancréas, ...) - Phế (phổi) - Thận (cật).
* Lục Phủ : là Đại Tràng (ruột già) - Tiểu Tràng (ruột
non) - Đởm (mật) - Bàng Quang - Vị (dạ dầy) - Màng bọc tim.
* Tả Thốn thuộc Hỏa, chủ về Nhân - Tả Quan thuộc Mộc,
chủ về Nghĩa - Tả Xích thuộc Thủy, chủ về Trí.
* Hữu Thốn thuộc Kim, chủ về Lễ - Hữu Quan thuộc Thổ,
chủ về Tín - Hữu Xích thuộc Hỏa, chủ về Trí.
* Ngũ Hành Sanh
Hóa : Tả Xích Thủy sinh Tả Quan Mộc - Tả Quan Mộc sinh Tả
Thốn Hỏa - Tả Thốn Hỏa tiếp với
Hữu Xích Hỏa - Hữu Xích Hỏa sinh Hữu Quan Thổ - Hữu Quan Thổ sinh
Hữu Thốn Kim - Hữu Thốn Kim sinh
Tả Xích Thủy.
* Sơ án là để
tay nhẹ lên da đă nhận ra mạch. Dùng để xem Phổi chủ về Khí
và xem Tim chủ về Huyết.
* Trung án là ấn xuống thịt mới nhận ra mạch. Dùng đề
xem Tỳ chủ về Cơ nhục và xem Gan chủ về Gân.
* Trọng án là phải ấn xâu đến xương mới thấy mạch.
Dùng để xem Thận chủ về Xương.
TÁM MẠCH ĐẠI CƯƠNG
1.
Mạch Phù :
Nhận thấy ngay ở sơ án. Lấy tay khẽ để nhẹ lên da mà thấy
ngay mạch th́ gọi là Phù.
Chủ về bệnh ngoài da (Biểu bệnh).
2.
Mạch Trầm :
Nhận thấy mạch ở trung án hoặc trọng án. Lấy tay ấn mạnh
xuống dưới làn da thịt mới thấy mạch.
Đó gọi là mạch Trầm. Chủ về bệnh bên trong (Lư bệnh).
3.
Mạch Tŕ : Xem
bộ Vị, có nghĩa là Hữu Quan. Đặt cả 3 ngón tay xem toàn bộ
Thốn-Quan-Xích.
Nghe xem trong mỗi hơi thở của ḿnh mà mạch chỉ
đến 2 hay 3 lần. Chủ về bệnh Hàn (rét lạnh).
4.
Mạch Sác : Xem
bộ Vị, có nghĩa là Hữu Quan. Đặt cả 3 ngón tay xem toàn bộ
Thốn-Quan-Xích.
Trong mỗi hơi thở mà thấy mạch chạy qua từ 5 đến 7 lần.
Đó là mạch Sác, chủ về bệnh Nhiệt (nóng).
5.
Mạch Tế : Xem
bộ Vị, có nghĩa là Hữu Quan. Đặt cả 3 ngón tay xem toàn bộ
Thốn-Quan-Xích.
Nhận thấy mạch nhỏ li ti như sợi tơ mà đi nhanh. Đó là
mạch Tế, chủ về bệnh Hư.
6.
Mạch Đại : Xem
bộ Vị, có nghĩa là Hữu Quan. Đặt cả 3 ngón tay xem toàn bộ
Thốn-Quan-Xích.
Nhận thấy mạch nổi cồn to dưới ngón tay. Gọi là mạch
Đại, chủ về bệnh Thực.
7.
Mạch Đoản :
Xem bộ Vị, có nghĩa là Hữu Quan. Đặt cả 3 ngón tay xem toàn
bộ Thốn-Quan-Xích.
Thấy mạch chạy qua tay ngắn ngủi, phía ngoài mạch chưa
đến Thốn, phía trong mạch chưa đến Xích.
Đó là mạch Đoản, chính là người vốn bẩm thụ kém, khí
huyết suy nhược, thiếu thốn (Thiên Tiên Bất Túc).
8.
Mạch Trường :
Xem bộ Vị, có nghĩa là Hữu Quan. Đặt cả 3 ngón tay xem toàn
bộ Thốn-Quan-Xích.
Nhận thấy mạch đi dài, phía ngoài lên quá Ngư Tế (Thốn
Bộ), phía trong vào khỏi Xích Trạch, gọi là mạch Trường.
Đó là người vốn bẩm thụ cường tráng hoặc là bệnh dương
cường (Thiên Tiên Hữu Dư).
|
Mạch Phù / Trầm :
Mạch Tŕ / Sác :
Mạch Tế / Đại :
Mạch Đoản / Trường :
|
Để
tay nặng nhẹ mà nhận biết mạch.
Cách mạch đến chậm hoặc nhanh.
Xem mạch đi nhỏ hoặc lớn.
Nhận mạch đi ngắn hoặc dài.
|
|
Mạch Tế / Đoản :
Mạch Đại / Trường :
Mạch Sác Thực :
Mạch Sác Hư :
|
Mạch đi ch́m trong thịt.
Mạch đi nổi ngay làn da.
Mạch đi mau và to lớn.
Mạch đi mau và nhỏ bé.
|
MẠCH HỔ KIẾN / MẠCH TƯƠNG
KIÊM
Xem
mạch ta nên cần phải ư thúc cho thật rơ ràng, lư trí cho
phân minh để nhận thế nào là Biểu Lư Hàn Nhiệt.
*
Mạch Phù
* Mạch Trầm
* Mạch Biểu Lư Hàn Nhiệt
* Mạch Biểu Lư Hàn Nhiệt Hư Thực
* Phù Thực là cứng rắn gồm các mạch :
* Phù Hư là mềm yếu gồm các mạch :
* Nhiệt là lưu thông gồm các mạch :
* Hàn là đọng trệ gồm các mạch : |
Phù
mà đi Tŕ
Phù mà đi Sác
Trầm mà đi Tŕ
Trầm mà đi Sác
BLHN mà đi Tế
BLHN mà đi Đại
BLHNHT mà đi Đoản
BLHNHT mà đi Trường
Thực - Khẩn - Huyền - Hoạt.
Hư - Sắc - Nhu - Hoăn.
Phù - Đại - Trường - Sác.
Trầm - Vi - Đoản - Tŕ. |
Là
Biểu Hàn.
Là Biểu Nhiệt.
Là Lư Hàn.
Là Lư Nhiệt.
Là Hư.
Là Thực.
Bẩm thụ suy nhược.
Bẩm thụ cường tráng.
|
Mạch Tương Tự :
Xem th́ h́nh như giống nhau, nhưng khi tinh tế sẽ nhận ra sự
khác biệt :
§
Phù tương tự Khâu - Hư - Hồng
Mạch Khâu th́ bên trong rỗng nhưng có đốt như bị đứt ngẹn
giống ống rau muống.
Mạch Phù th́ không có đốt, không bị đứt.
Mạch Hư th́ ấn nặng tay thấy không có lực, trong khi Phù chỉ
để nhẹ đă nhận ra mạch.
Mạch Hồng đi mạnh, dầy và dồn dập, trong khi Phù th́ đi
nổi nhưng sức yếu mỏng.
§
Hoạt tương tự Động - Sác
Mạch Động th́ đi lông lốc, chẳng đầu chẳng đuôi, lay động một
chỗ.
Mạch Hoạt th́ thong thả, trơn tru, chạy tuồn tuột như chuỗi
hạt luồn qua ngón tay.
Mạch Sác th́ tới mau và nhiều lần, trong khi Hoạt th́ thong
thả và chậm răi hơn.
§
Thực tương tự Cách
Mạch Cách khi ấn tay xuống đă thấy căng thẳng như da trống,
không rời chỗ.
Mạch Thực th́ vừa dài, vừa căng chắc, mạnh mẽ như có thực.
§
Huyền tương tự Khẩn
Mạch Khẩn khi ta nói về tượng của mạch th́ nó găng như kéo
dây, như căng thẳng ở đầu dây.
Mạch Huyền khi nói về sức của mạch th́ nó cũng găng như dây
cung đang căng thẳng.
§
Hồng tương tự Đại
Mạch Đại th́ rộng lớn, nhưng khi ấn xuống một tí th́ thấy
không c̣n lực mấy.
Mạch Hồng khi ấn xuống vẫn c̣n thấy mạch đi cuồn cuộn như
sóng nước dâng lên.
§
Vi tương tự Sắc
Mạch Sắc th́ vừa ngắn, vừa chậm, vừa nhỏ, nghe cờn cợt như
dao cạo vào thanh tre.
Mạch Vi th́ đi nhỏ nhẹ, đi li ti như sợi tơ nhện hoặc như sợi
lông nhỏ.
§
Trầm tương tự Phục
Mạch Phục th́ phải ấn đầu ngón tay xâu xuống xương mới nhận
thấy.
Mạch Trầm th́ ấn nặng tay đă nhận ra. Trầm ch́m vẫn c̣n nông
hơn Phục.
§
Hoăn tương tự Tŕ
Mạch Tŕ th́ trong mỗi hơi thở ta thấy mạch đến được khoảng 3
lần.
Mạch Hoăn th́ trong mỗi hơi thở ta thấy mạch đến được khoảng
4 lần.
§
Tŕ tương tự Sắc
Mạch Sắc th́ đi lại có vẻ khó khăn, rít kịt. Mạch Tŕ th́ đi
chầm chậm không rít.
§
Nhược tương tự Nhu
Mạch Nhu th́ sức mềm nhẽo.
Mạch Nhược th́ khe khẽ động đậy, mường tượng khi th́ yếu ớt,
khi th́ như không có mạch.

|